Hàn Mặc Tử trở thành một bệnh nhân của làng từ tháng
9/1940, đến 11/1940 thì qua đời trong bệnh tật. Căn phòng nơi Hàn trút hơi thở
cuối cùng, nay trở thành nhà lưu niệm, vẫn giữ nguyên những đồ đạc đơn sơ ngày
đó: chiếc giường cá nhân, chiếc ghế cùng vài vật dụng thông thường.
Đài tưởng niệm
Hàn Mặc Tử ở khu mộ cũ.
Ông được chôn trong nghĩa địa của làng dưới chân núi
Trứng. Theo lời kể của những người chứng kiến thời đó, mộ của ông cũng không có
gì đặc biệt so với các bệnh nhân khác: một nấm đất nhỏ như kích cỡ của hàng
trăm ngôi mộ khác, xếp theo dãy thứ tự, nằm lặng lẽ trong muôn vàn cái chết lặng
lẽ của người mắc bệnh cùi – vốn không có gia đình, hay nhiều bè bạn khi cuối đời.
Suốt 19 năm Hàn nằm lại trong nghĩa địa làng phong.
Theo lời kể của nhiều nhà nghiên cứu về cuộc đời và thơ Hàn, trong thời gian
đó, do hoàn cảnh chiến tranh, đường giao thông không thuận lợi và điều kiện khó
khăn, nên mãi đến ngày 13/01/1959, gia đình và bạn bè mới cải táng (bốc mộ)
sang địa điểm mới cho người đã chết. Buổi lễ cải táng cho nhà thơ được tiến
hành khá đơn giản: chỉ có hai người chị, hai người em, ba người bạn và một vị
linh mục tham dự.
Đến năm 1991, cố nhạc sỹ Trần Thiện Thanh (ca sỹ Nhật
Trường) cùng một số nhạc sỹ khác yêu mến tài năng thơ trẻ này đã đóng góp tiền
để xây dựng một ngôi mộ - đài tưởng niệm,
trên nền mộ cũ của Hàn. Quần thể mộ gồm một khoảng sân, phía chính giữa là đài
tưởng niệm có hình tượng một cây bút, cây thánh giá dựng trên cuốn thơ. Những
nét uốn lượn của cuốn sách thơ, bệ tượng đài, hình phù điêu bao quanh khu mộ
cũng dễ liên tưởng đến hình tượng vầng trăng khi khuyết lúc đầy, vốn luôn thấp
thoáng ẩn hiện trong thơ Hàn.
Nhạc sỹ Trần Thiện Thanh vốn là một người rất yêu
thơ Hàn. Những năm 1960, ông đã sáng tác bài hát nổi tiếng về Hàn Mặc Tử “Đường
lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa...”. Người vợ của ông tên Nam
Trân, nhưng hâm mộ thơ Hàn đến mức thêm ‘họ’ của nhà thơ vào trước tên mình
thành Hàn Nam Trân.
Theo lời của một số người bạn nhạc sỹ kể lại, cảm động
vì số phận của một nhà thơ lớn suốt hàng chục năm phải nằm nhỏ nhoi, quạnh quẽ,
sau một lần viếng thăm mộ Hàn Mặc Tử, nhạc sỹ đã sáng tác bài hát nói trên và
đau đáu nuôi ý định: “Nơi một thi sỹ lớn đã sống những ngày cuối đời và nằm cô
quạnh suốt hai mươi năm, chẳng lẽ không có một dấu vết gì để nhớ?”.
Điều ước cuối cùng chưa thoả
Từ làng phong Quy Hòa, ngược dốc lên đường quốc lộ
sát chân núi, rồi lại xuống dốc sang triền núi bên kia, qua quãng đường dăm cây
số sẽ gặp khu mộ Hàn trên Ghềnh Ráng.
Theo lời kể của những người thân gia đình Hàn Mặc Tử,
khi còn sống, Hàn đã từng tâm sự với bạn bè, muốn khi chết sẽ được chôn trên
đèo Son là một địa điểm ở đầu thành phố Quy Nhơn, vì đó là khu vực dựa lưng vào
núi, mặt quay ra biển. Nhớ lời Hàn năm xưa, sau khi bốc mộ, người thân của Hàn
cũng muốn thực hiện ý muốn của người đã khuất, nhưng khi đó đèo Son là khu vực
cấm nên mọi người đã chọn Ghềnh Ráng là khu vực cũng hội đủ những yếu tố như
Hàn đã từng ao ước.
Dựng
lều thơ bên mộ Hàn.
Từ Ghềnh Ráng, để lên đến mộ Hàn, du khách leo qua
chừng hơn trăm bậc thang đá, giữa hai hàng cây song song chụm đầu vào nhau rì
rào bốn mùa đón gió biển. Mộ Hàn nằm dựa lưng vào núi, nhìn bao quát cả dải bờ
biển Quy Nhơn chạy dài trước mặt, hút trọn tầm mắt một phần thành phố Quy Nhơn.
Dưới chân khu mộ, qua một vực đá thoai thoải với muôn vàn tảng đá nhiều hình
thù xếp lớp, là sóng biển bốn mùa vỗ bờ.
Mộ rộng chừng dăm thước vuông, ốp đá đơn sơ, xung
quanh tàn cây mát rượi. Dòng chữ lớn RIP (Rest in peace – Dịch nôm na: An nghỉ
ngàn thu) màu trắng nổi bật trên nền đá ốp hồng. Phía trên đầu mộ là tượng Đức
Mẹ Maria hiền từ nhìn xuống. Mộ chí không ghi tên ông là nhà thơ nổi tiếng mà
chỉ ghi khiêm nhường “Đây an nghỉ trong tay Mẹ Maria: Hàn Mặc Tử, tức Phêrô
Phanxicô Nguyễn Trọng Trí”.
Chàng
thi sỹ dựng lều bên mộ
Nhiều người dân ở Quy Nhơn nói rằng: “Hàn Mặc Tử sau
khi chết hơn 60 năm vẫn không cô đơn”. Ai đó có thể không tin, nhưng nếu đã từng
đến thăm mộ Hàn một lần, và gặp chàng thi sỹ bỏ nhà để lên dựng lều cạnh mộ
Hàn, chỉ để thỏa ước muốn ngày đêm ngâm thơ Hàn, sưu tầm những tư liệu về Hàn Mặc
Tử, thì sẽ tin câu chuyện “Hàn không cô đơn sau khi chết” là có thật.
Chàng thi sỹ đó là Trương Vũ Kha, hay còn gọi là Dzũ
Kha, là “Bút lửa giữ thơ Hàn”. Vì quá yêu thơ Hàn mà người đàn ông trạc tuổi
hơn 40, dáng người cao dong dỏng, có mái tóc dài đầy chất nghệ sỹ, vốn tốt nghiệp
Đại học Mỹ thuật này, đã từ bỏ đô thị để về Ghềnh Ráng chăm sóc mộ Hàn.
Khu mộ được Vũ Kha trang hoàng bằng nhiều phiến đá,
phiến gỗ khắc thơ cầu kỳ, nét chữ bay bướm. Vũ Kha cũng không khắc chữ thông
thường bằng cách đục đẽo, mà anh khắc chữ bằng bút điện, bút lửa. Không chỉ dựng
căn nhà gỗ đơn sơ bên mộ Hàn để ngày ngày chép lại thơ Hàn, quét dọn chăm sóc mộ
Hàn, anh còn là hướng dẫn viên du lịch miễn phí cho du khách bỡ ngỡ tới lần đầu
cần hướng dẫn. Cũng chính Kha là người đã tìm lại được nhiều tư liệu quý về Hàn
Mặc Tử, như một số bản thảo các bài thơ do chính tay Hàn viết hơn 60 năm về trước.
Hỏi anh về nguyên nhân của việc “hâm mộ” Hàn Mặc Tử
tới mức đó, Kha nhẹ nhàng đọc những vần thơ anh viết: “Bạn lên phố thị xênh
xang. Riêng ta ở lại đa mang xứ Ghềnh. Phồn hoa náo nhiệt lãng quên. Họa thi
bút lửa sưởi bên mộ Hàn”.
Sáu mươi năm đã qua kể từ ngày Hàn Mặc Tử qua đời,
theo lời kể của những người già trong khu vực, Ghềnh Ráng - làng phong Quy Hòa
ngày ấy và bây giờ, vẫn mang dấu ấn Hàn Mặc Tử. Ra bãi biển Quy Hòa, lại chợt
nhớ đây là nơi Hàn vẫn thường thơ thẩn mỗi chiều lẩm nhẩm những vần thơ; ngồi
trên ngọn núi có những tảng đá lớn hình quả trứng bên những dãy nhà bệnh nhân
cũ, lại chợt hỏi tảng đá này có phải Hàn đã từng ngồi chơi? Đêm ngắm trăng sáng
bên Ghềnh Ráng, hiểu thêm nỗi đau của những người mắc bệnh cùi, cơn đau vật vã
nhất thường kéo đến vào những tuần trăng...
Lần đầu tới làng phong, nếu không được nói trước,
khách phương xa có lẽ không biết được đây là ngôi làng của những con người đã từng
bị xã hội ghẻ lạnh, hắt hủi, xua đuổi theo hủ tục nhiều năm về trước. Làng
phong nay cũng bình yên như ngàn vạn ngôi làng trên đất nước, có đường làng rợp
bóng cây, có mắt trẻ khúc khích dõi theo dáng người khách lạ, có những ngư dân
ngừng tay đan lưới dưới hiên nhà nở một nụ cười chào khách mới đến, có chú chó vằn
ngoáy đuôi rối rít đón chủ về...
Làng bình yên như bức tranh trong thơ của Hàn mà ở
đây, già trẻ gái trai ai cũng đều thuộc: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan. Đôi
mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc. Trên giàn thiên lý
bóng xuân sang”...
Nhận xét
Đăng nhận xét